35. Sợ Hãi Và Khổ Đau – Fear and Pain - Song ngữ

 

Fear and Pain

Sợ Hãi Và Khổ Đau

English: Ajahn Brahm

Việt ngữ: Chơn Quán Trần-ngọc Lợi

Compile: Lotus group

35. Sợ Hãi Và Khổ Đau – Fear and Pain - Song ngữ

 

35. Sợ Hãi 1

 

Chương 3: Sợ Hãi Và Khổ Đau – Fear and Pain

 

19. Freedom from fear

      Vô úy (Vô (=không) úy (=sợ hãi) có nghĩa là không sợ hãi)

 

35. Sợ Hãi 2 freedom

Freedom from fear

 

If guilt is looking at the brick wall of our past and seeing only the two bad bricks we’ve laid, then fear is staring at the brick wall of our future and seeing only what might go wrong. When we are blinded by fear, we just can’t see the rest of the wall that’s made up of what might go perfectly well. Fear, then, is overcome by seeing the whole of the wall, as in the following story from a recent teaching visit to Singapore.

Nếu tội lỗi nhìn bức tường gạch lúc trước và chỉ thấy hai viên gạch lệch (xem “Hai viên gạch lệch”, số 1), sợ hãi sẽ chăm chú vào bức tường tương lai và chỉ thấy toàn gạch lệch. Lúc bị sợ hãi làm cho mù, mắt sẽ không còn thấy các viên gạch tốt nữa. Câu chuyện sau mà tôi có dịp thuyết ở Singapore là một cách đối trị sợ hãi.

 

My series of four public talks had been arranged many months before, the large and expensive 2500-seat auditorium at Singapore’s Suntec City had been booked, and the posters were displayed on the bus stops. Then came the crisis of SARS (Severe Acute Respiratory Syndrome). When I arrived in Singapore the schools were all closed, apartment blocks were quarantined and the government was advising its people not to attend any public gatherings. Fear was vast at that time. I was asked, ‘Should we cancel?

Tôi được qua Singapore thuyết bốn bài pháp tại Suntec City (Khu thương mại lớn tối tân nhất tại trung tâm Singapore. Gồm nhiều khu trưng bày, phòng họp lớn nhỏ, giảng đường, rạp hát, nhà hàng, siêu thị v.v...). Mọi chi tiết tổ chức đã được sắp xếp rất chu đáo: thông tin đã gởi đi khắp nơi (áp phích được thấy hầu hết các điểm dừng của xe buýt); hội trường 2500 ghế rất đắt giá đã hết chỗ. Nhưng rủi thay, lúc bấy giờ dịch cúm SARS (Severe Acute Respiratory Syndrome (SARS) = Hội chứng hô hấp cấp tính nặng do vi khuẩn gây ra. SARS hình như xả ra lần đầu tiên ở Quảng Đông, Trung Quốc vào tháng 11.2002. Lây lan sang nhiều nước khác kể cả Việt Nam vào đầu tháng 3.2003) vừa được phát hiện khiến trường học phải đóng cửa, nhiều khu dân cư bị kiểm dịch cách ly, và chánh quyền khuyến cáo tránh các hội họp công cộng. Sợ hãi làm tê liệt mọi hoạt động địa phương. Ban tổ chức hỏi tôi có cần hủy bỏ các buổi nói chuyện không?

 

‘That very morning, the front page of the daily newspaper warned in large black figures that ninety-nine Singaporeans were now confirmed with SARS. I asked what the current population of Singapore was. It was approximately four mil-lion. ‘So,’ I remarked, ‘that means that 3,999,901 Singaporeans haven’t got SARS! Let’s go ahead!’ ‘But what if someone gets SARS?’ fear said.

‘But what if they don’t?’ said wisdom. And wisdom had probability on its side.

Ngay sáng hôm có buổi nói chuyện đầu tiên, báo chí đăng tin trên mạng trang nhất và bằng chữ lớn Singapore có 99 trường hợp nhiễm dịch. Tìm hiểu số Singapore tôi được biết con số trên dưới bốn triệu. Tôi nói với ban tổ chức rằng:

“Như vậy con 3.999.901 dân không bị SARS. Ta cứ tiến hành.”

“Nhưng nếu có ai đó bị lây thì sao?” Sợ hãi hỏi.

“Nhưng nếu không ai hết?” Trí tuệ hỏi lại, với một xác suất lớn sẵn nằm trong tay.

 

So, the talks went ahead. Fifteen hundred people came on the first night, and the numbers steadily increased to a full house on the final night. Around 8000 people attended those talks. They learned to go against irrational fear, and that would strengthen their courage in the future. They enjoyed the talks and left happy, which meant that their virus-fighting immune system had been enhanced. And, as I emphasized at the end of each talk, because they laughed at my funny stories, they have exercised their lungs and thus strengthened their respiratory systems!

Of course, not one person from those audiences got SARS.

Thế là các buổi nói chuyện được tiến hành như thường lệ. Đêm đầu tiên có năm trăm thính giả đến nghe và đêm thứ tư hội trường đông nghẹt. Tổng cộng có trên tám ngàn tham dự. Họ học được bài học cưỡng lại sự sợ hãi không hợp lý và bài học này giúp họ can đảm hơn trong tương lai. Họ thích các bài pháp và ra về hân hoan; hệ miễn dịch của họ dường như được tăng cường. Và như tôi thường đùa ở cuối mỗi buổi nói chuyện. “Quý vị cười lớn với các câu chuyện ngộ nghĩnh tôi kể, phổi quý vị sẽ nở lớn hơn và hệ thống hô hấp của quý vị sẽ được mạnh khỏe hơn!

 

The possibilities for the future are infinite. When we focus on the unfortunate possibilities, that’s called fear. When we remember the other possibilities, which are usually more likely, that’s called freedom from fear.

Muôn ngàn vạn thứ có thể xảy ra trong tương lai. Nếu chúng ta tác ý vào các thứ không may chúng ta sợ hãi. Khi chúng ta tác ý vào các thứ tốt lành chúng ta không sợ hãi; vô úy được trưởng dưỡng đơn giản như vậy đó.

 

20. Predicting the future - Tiên đoán được tương lai

 

35. Sợ Hãi 3 future

Your future will be uncertain,’ said Ajahn Chah

 

Many people would like to know the future. Some are too impatient to wait for it to happen, so they seek out the services of oracles and fortune-tellers. I have a warning for you on oracles: never trust a poor fortune-teller! Meditating monks are regarded as excellent fortune-tellers, but they usually don’t co-operate easily.

Nhiều người muốn biết tương lai mình thế nào. Một số người không đủ kiên nhẫn chờ nó tới nên tìm thầy coi tay, bói toán, đoán tử vi v.v... Tôi xin thưa ngay với các bạn là không nên tin vào các thầy ấy. Nhiều thiền sư tiên đoán tương lai còn hay hơn, nhưng không mấy khi chư vị hành nghề!

 

One day a long-serving disciple of Ajahn Chah asked the great master to predict his future. Ajahn Chah refused: good monks don’t tell fortunes. But the disciple was determined. He reminded Ajahn Chah of how many times he had offered him alms food, how many donations he had given to his monastery, and how he had chauffeured Ajahn Chah in his own car at his own expense, to the neglect of his own work and family. Ajahn Chah saw that the man was determined to get his fortune told, so he said that for once he would make an exception to the no-fortune-telling rule.

Lần nọ có một đệ tử của Ajahn Chah đến bạch xin Ngài đoán giùm vận mạng mình. Ngài nói, “sư chơn chánh không bói toán”. Nhưng ông này cứ nài nỉ và kể công đã bao lần đặt bát cho Ngài, cúng dường tự viện Ngài, đưa Ngài đi bằng xe và xăng nhớt của ông, phục vụ Ngài bất kể công ăn việc làm của gia đình ông. Thấy đệ tử này quá muốn biết chuyện tương lai của mình, Ajahn Chah nói Ngài lấy một quyết định ngoại lệ đối với giới luật cấm bói toán và bảo:

 

‘Give me your hand. Let me see your palm.’

The disciple was excited. Ajahn Chah had never read palms for any other disciple. This was special. Moreover, Ajahn Chah was regarded as a saint, with great psychic powers. Whatever Ajahn Chah said would happen, surely would happen. Ajahn Chah traced the lines on the disciple’s palm with his own index finger. Every so often, he would say to himself, ‘Ooh. That’s interesting’ or ‘Well, well, well’ or ‘Amazing’. The poor disciple was in a frenzy of anticipation.

“Đệ tử xòe tay để thầy coi cho”

Ông vô cùng hoan hỷ vì biết rằng Ajahn Chah hồi nào tới giờ có coi tay cho ai đâu. Âu là một ân huệ đặc biệt Ngài dành cho ông. Hơn thế nữa, ông nghĩ, Ngài là một thánh sống có thần thông, đoán gì là chắc chắn có nấy. Ajahn Chah cầm tay ông, dùng ngón trỏ vẽ lên các chỉ tay ông và thỉnh thoảng tự nói nho nhỏ với mình, “Ồ, rất hay!” hoặc “Tốt, tốt, tốt!” hoặc “Tuyệt diệu!” Ông đệ tử đáng tội đang hồi hộp chờ.

 

When Ajahn Chah was finished, he let go of the disciple’s hand and said to him, ‘Disciple, this is how your future will turn out.’

‘Yes, yes,’ said the disciple quickly.

‘And I am never wrong,’ added Ajahn Chah.

‘I know, I know. Well. What’s my future going to be?’ the disciple uttered in ultimate excitement.

‘Your future will be uncertain,’ said Ajahn Chah. And he wasn’t wrong!

Một lát sau Ajahn Chah rút tay mình về và nói:

“Này đệ tử, đây là những gì sẽ xảy đến cho ông”

Dạ..dạ, thưa Ngài” Ông lắp bắp.

“Và thầy không bao giờ sai” Ajahn Chah nói tiếp.

“Thưa Ngài con biết, con biết. Vậy tương lai của con thế nào?” Ông bạch với lòng mừng vui phấn khởi.

“Tương lai của con không chắc chắn,” Ngài đáp.

Và, Ngài không sai!

 

21 – Gambling - Bài Bạc

 

35. Sợ Hãi 4 gambling

 All gamblers are losers, eventually

 

Money is hard to accumulate, but easy to lose—and the easiest way to lose it is by gambling. All gamblers are losers, eventually. Still, people like to predict the future so that they can make a lot of money by gambling. I tell the following two stories to show them how dangerous it is to predict the future, even when we have signs.

Tiền bạc rất khó tích lũy nhưng dễ tiêu hao và cách tiêu hao nhanh nhất là cờ bạc. Tất cả những người cờ bạc rốt cuộc đều thua lỗ. Vậy mà nhiều người vẫn thích tiên đoán với hy vọng thắng cuộc. Tôi xin kể hai câu chuyện sau cho thấy tiên đoán rất ư nguy hiểm dầu có dấu hiệu cho thấy khả quan.

 

A friend awoke one morning from one of those dreams that was so vivid it seemed real. He had dream that five angels had given him five big jars of gold worth a fortune. When he opened his eyes, there were no angels in his bed-room and, alas, no pots of gold. But it was a very strange dream.

Một anh bạn nọ thức giấc với câu chuyện nằm mơ thấy rõ ràng tưởng chừng như thiệt. Anh mơ thấy năm tiên nữ tặng cho anh năm hũ vàng lớn đáng giá một gia tài kếch xù. Mở mắt ra anh không thấy tiên nữ cũng chẳng thấy vàng, nhưng cơn mộng còn rất sống động, ly kỳ trong đầu anh.

 

When he went into the kitchen, he saw that his wife had made him five boiled eggs with five pieces of toast for his breakfast. At the top of the morning newspaper he noticed the date, the fifth of May (the fifth month). Something odd was going on. He turned to the back pages of the newspaper, to the horse racing pages. He was stunned to see that at Ascot (five letters), in race number five, horse number five was called ... Five Angels! The dream was an omen.

Chừng xuống bếp ăn sáng anh thấy vợ anh chiên cho anh năm cái trứng gà và nướng cho anh năm lát bánh mì. Cái con số năm này còn thấy nhan nhản trên đầu tờ nhật báo hôm nay: mùng năm tháng năm. Thiệt lạ! Chưa hết. Anh lật báo xem trang đua ngựa, anh ngạc nhiên thấy trên Ascot (gồm 5 chữ) trong độ thứ nhất có con ngựa số năm mang tên Năm Thiên Thần. Giấc mơ là một điềm tốt lành, anh đoán mò.

 

He took the afternoon off work. He drew five thousand dollars out of his bank account. He went to the race track, to the fifth bookmaker and made his bet: five thousand dollars on horse number five, race number five, Five Angels, to win.

Anh xin nghỉ làm buổi chiều, ra ngân hàng rút năm ngàn đô la, chạy ra trường đua, đến quầy số năm, đánh hết năm ngàn đô vào con ngựa số năm tên Năm Thiên Thần, chạy độ thứ năm.

 

The dream couldn’t be wrong. The lucky number five couldn’t be wrong! The dream wasn’t wrong. The horse came in fifth.

Giấc mơ không sai. Các số năm hên không sai. Chỉ sai điều là chúng xảy ra hơi lệch một chút thôi: Con ngựa số năm về hạng thứ năm.

 

The second story occurred in Singapore a few years ago. An Australian man married a nice Chinese woman from Singapore. Once, while they were visiting family in Singapore, his brothers-in-law were going to the horse racing track for the afternoon and invited him to go along too. He agreed. But before they visited the racetrack, they insisted on stopping off at a renowned Buddhist temple to light some joss sticks and pray for good luck. When they arrived at the small temple, they found it was in a mess. So, they got some brooms, a mop and some water and cleaned it all up. Then they lit their joss sticks, asked for good luck, and went off to the track. They all lost heavily.

Chuyện thứ nhì xảy ra tại Singapore vài năm trước đây. Có anh chàng người Úc cưới cô vợ người Singapore. Lần nọ hai vợ chồng về thăm quê ngoại và anh được mấy cậu em vợ mời đi trường đua giải trí. Trên đường các anh em ghé qua chùa đốt nhang cầu thần tài. Thấy chùa bừa bãi, họ lấy chổi quét, giẻ lau và dọn dẹp. Công phu xong họ đốt nhang khấn vái, rồi đưa nhau đến trường đua. Hôm ấy họ thua đậm.

 

That night, the Australian had a dream of a horse race. When he awoke, he clearly remembered the name of the winning horse. When he saw in the Straits Times that there was, indeed, a horse by that name running in a race that afternoon, he rang his brothers-in-law to tell them the good news. They refused to believe that a Chinese spirit guarding a Singaporean temple would tell a white man the name of a winning horse, so they disregarded his dream. He went to the track. He put a large bet on that horse. The horse won.

Đêm lại anh người Úc chiêm bao thấy đua ngựa. Lúc tỉnh giấc anh còn nhớ rõ tên con ngựa về nhất. Thấy trong báo Straits Times có tên con ngựa anh chiêm bao sẽ chạy vào chiều nay, anh tìm các cậu em vợ báo tin hên. Nhưng không ai tin vị thần hộ pháp chùa Singapore lại đi báo mộng cho anh da trắng người Úc nên không thèm để ý. Anh ra trường đua một mình và đánh cá con ngựa đó. Anh thắng lớn.

 

Chinese temple spirits must like Australians. His brothers-in-law were fuming.

Thần chùa Tàu da vàng khè mà lại đi phù hộ cho người Úc da trắng bệch. Các cậu em vợ Tàu giận hậm hực!

 

22. What is fear? - Sợ Hãi là gì?

 

35. Sợ Hãi 5 no fear

 Fear is finding fault with the future

 

Fear is finding fault with the future. If only we could keep in mind how uncertain our future is, then we would never try to predict what could go wrong. Fear ends right there.

Sợ hãi rất kỵ tương lai. Chỉ khi nào chúng ta tin rằng tương lai không thể xác quyết, chúng ta mới không thử đoán chuyện tương lai. Chừng đó chúng ta mới hết sợ hãi.

 

Once, when I was little, I was terrified of going to the dentist. I had an appointment and did not want to go. I worried myself silly. When I arrived at the dentist’s, I was told my appointment had been cancelled. I learned what a waste of precious time fear is.

Hồi tôi còn nhỏ tôi rất sợ đi khám răng. Lần nọ tôi tới và được biết buổi hẹn đã bị hủy, tôi học được một bài học: nơm nớp lo sợ trước khi đến đây chỉ mất công và tốn thời gian!

 

Fear is dissolved in the uncertainty of the future. But if we don’t use our wisdom, fear can dissolve us. It nearly dissolved the young novice Buddhist monk, Little Grasshopper, in an old television series called Kung Fu. I used to watch this series obsessively in my last year as a schoolteacher, before I became a monk.

Tương lai chưa đến và không thể biết chắc như thế nào. Cái không biết chắc đó có thể phân giải sợ hãi. Nhưng nếu chúng ta không biết dùng trí tuệ, sợ hãi có thể phân giải chúng ta. Nó gần như đã hóa giải chú Sadi Cào Cào con (Little Grasshopper) trong tập truyện truyền hình Kung Fu, tập truyện mà tôi say mê lúc còn đi dạy và trước khi xuất gia.

 

One day, Little Grasshopper’s blind master took the novice into a back room of the temple, normally kept locked. In the room was an indoor pool some six meters wide, with a narrow wooden plank as a bridge from one side to the other. The master warned Little Grasshopper to keep clear of the pool’s edge, because it did not contain water, but very strong acid.

Chuyện kể: Một chú Sadi Cào Cào con được sư phụ mù của mình đưa vào một cốc trong chùa có cửa đóng then gài. Trong cốc có cái hồ dài sáu thước với chiếc cầu gỗ hẹp bắt ngang. Chú Sadi được dặn không nên đến gần hồ vì hồ không chứa nước mà còn chứa axit.

 

‘In seven days’, time,’ Grasshopper was told, ‘you will be tested. You will have to walk across that pool of acid by balancing on the wooden plank. But be careful! Do you see at the bottom of that pool of acid those bones here and there?

‘Grasshopper looked warily over the edge and saw the many bones.

‘They used to belong to young novices like you.’

“Trong bảy ngày tới”, sư phụ bảo “con sẽ được thử tài. Con sẽ đi qua hồ trên tấm ván lắc lư kia. Phải thật cẩn thận. Con có thấy xương rải rác dưới đáy hồ không?”

Cào Cào con chăm chú nhìn xuống hồ và có thấy nhiều khúc xương dưới đáy. Sư phụ chú hỏi tiếp:

“Đó là xương của các Sadi như con bị rớt xuống hồ”

 

The master took Grasshopper out of that terrible room into the sunlight of the temple courtyard. There, the elder monks had set up a plank of exactly the same size as the one over the acid pool, but raised on two bricks. For the next seven days, Grasshopper had no other duties apart from practising walking on that plank.

It was easy. In a few days he could walk with perfect balance, blindfolded even, across that plank in the courtyard.

Đoạn sư phụ đưa Cào cào con ra sân dưới ánh nắng chói chang để tập đi qua hồ. Ở đây ông xếp sẵn tấm ván có cầu giống y tấm ván hẹp bắt qua hồ axit, chỉ có khác là ván được kê trên hai viên gạch nằm giữa sân. Rồi trong bảy ngày liên tiếp Cào Cào con không phải công phu mà tập đi trên tấm ván cầu ấy. Dễ dàng thôi. Sau vài hôm chú có thể đi qua đi lại, bịt mắt cũng không té.

 

Then came the test. Grasshopper was led by his master into the room with the acid pool. The bones of the novices who had fallen in shimmered at the bottom. Grasshopper got up onto the end of the plank and looked round at his master. ‘Walk,’ he was told.

Ngày thi đến, chú Cào cào con được đưa vô cốc có hồ axit, xương cốt còn đó và đang chập chờn dưới đáy. Chú bước tới giữa cầu, đưa mắt nhìn về phía sư phụ. Ông ra lệnh: “Bước”

 

A plank over acid is much narrower than a plank of the same size in a temple courtyard. Grasshopper began to walk, but his step was unsteady; he began to sway. He wasn’t even halfway across. He wobbled even more. It looked like he was going to fall into the acid. Then the series stopped for a commercial break.

Ván cầu ngang hồ axit dường như hẹp hơn tấm ván kê trong sân nhiều. Chú Cào Cào con bắt đầu bước. Nhưng bước đi của chú không vững, chú loạng choạng lúc ra gần tới giữa cầu. Rồi chú chồng chành, tưởng chừng sắp té xuống hồ axit.

 

I had to endure those stupid advertisements, all the while worrying how poor Little Grasshopper would save his bones.

Tới đây phim ngưng để quảng cáo. Tôi phải chịu đựng với ba thứ quảng cáo ngu xuẩn này, trong lúc lo sợ không biết chú Cào Cào con có “qua cầu” không?

 

The ads ended, and we were back in the acid-pool room, with Grasshopper beginning to lose his confidence. I saw him step unsteadily. Then sway. Then he fell in!

Hết quảng cáo. Phim tiếp tục. Chú Cào Cào con mất hết tự tin, bước lắc lư. Té, chú té xuống hồ!

 

The old blind master laughed, hearing Little Grasshopper splash about in the pool. It wasn’t acid; it was only water. The old bones had been tossed in as ‘special effects. They had fooled Little Grasshopper, as they had fooled me.

Sư phụ mù của chú cười ré trong lúc chú đập nước văng tung tóe. Nước hồ chứ không phải hồ axit. Còn xương là xương khô được xếp dươi đáy cho “có vẻ rùng rợn”. Họ đánh gạt Cào Cào con đồng thời cũng gạt luôn khán giả, như tôi.

 

‘What made you fall in?’ asked the master seriously. ‘Fear made you fall in, Little Grasshopper, only fear.’

“Cái gì làm con té xuống hồ?” Sư phụ hỏi rồi ông đáp luôn, “Sợ hãi làm con té, Cào cào con, chính sợ hãi đó”

 

23. Fear of public speaking - Sợ nói trước công chúng

 

35. Sợ Hãi 6 fear

All fear begins with the thought ‘what if’ and …

 

I was told that one of the greatest fears people have is speaking in public. I have to speak a lot in public, in temples and at conferences, at marriages and funerals, on talkback radio and even on live television. It is part of my job.

Một trong những sợ hãi lớn nhất, tôi được kể là nỗi sợ nói trước công chúng. Riêng tôi, vì nhiệm vụ, tôi thường nói trước công chúng trong chùa, trên diễn đàn, tại lễ cưới và đám tang, trên đài phát thanh và truyền hình trực tiếp.

 

I remember one occasion, five minutes before I was to give a public talk, when fear overwhelmed me. I hadn’t prepared anything; I had no idea what I was going to say. About three hundred people were sitting in the hall expecting to be inspired. They had given up their evening to hear me talk. I began thinking to myself: ‘What if I can’t think of anything to say? What if I say the wrong thing? What if I make a fool of myself? ‘

Có một lần chỉ còn mười lăm phút nữa là tôi phải lên bục nói, tôi bỗng dưng phát run vì sợ. Lần ấy tôi không có chuẩn bị trước nên không biết sẽ phải nói gì trong lúc cử tọa trên ba trăm đã dành trọn buổi tối ấy đến nghe tôi thuyết pháp. Tôi thầm nghĩ “Nếu tôi không tìm ra đề tài thì sao? Nếu tôi nói bậy thì thế nào? Và nếu tôi làm mình quê thì...?”

 

All fear begins with the thought ‘what if’ and continues with something disastrous. I was predicting the future, and with negativity. I was being stupid. I knew I was being stupid; I knew all the theory, but it wasn’t working. Fear kept rolling in. I was in trouble.

Nỗi sợ hãi dâng cao với mỗi chữ “nếu” tôi thêm vào các câu hỏi tôi tự đặt ra. Thiệt tai hại! Tôi đang tiên đoán tương lai với tâm tiêu cực. Tôi thật điên rồ. Tôi biết tôi nghĩ điên rồ dầu tôi biết tôi hiểu nhiều lý giải về tiên đoán và sợ hãi. Nhưng tôi không làm sao chận đứng được sự sợ hãi cứ tiếp tục gia tăng. Tôi bị trở ngại rồi!

 

That evening I developed a trick, what we call in monk-speak ‘a skillful means’, which overcame my fear then, and which has worked ever since. I decided that it didn’t matter if my audience enjoyed the talk or not, as long as I enjoyed my talk. I decided to have fun.

Tôi chợt nhớ một bí quyết mà ngôn từ Phật giáo gọi là “sự thiện xảo”. Tôi thử dùng nó. Tôi khẳng định với tôi rằng không có gì quan trọng hết, thính chúng có thích thú hay không cũng không sao miễn tôi thích thú là đủ rồi. Tôi quyết định sẽ nói một bài pháp mà tôi sẽ thích thú. Thế là tôi hết lo sợ. Buổi thuyết pháp của tôi rất thành công. Và thiện xảo ấy còn giúp tôi một cách hữu hiệu cho đến hôm nay.

 

Now, whenever I give a talk, I have fun. I enjoy myself. I tell funny stories, often at my own expense, and laugh at them with the audience. On live radio in Singapore I told Ajahn Chah’s prediction about the currency of the future. (Singaporeans are interested in things economic.) Ajahn Chah predicted once that the world would run out of paper for bank notes and metal for coins, so the people would have to find something else for everyday transactions.

Bây giờ mỗi khi tôi thuyết pháp tôi đều thấy thích thú – cái thích thú của riêng tôi. Tôi nói chuyện đùa và cười với cử tọa. Lần nọ trên đài phát thanh Singapore tôi kể lại chuyện tiên đoán tiền tệ mà Ajahn Chah kể trước đây. (Dân Singapore rất thích nghe chuyện liên quan đến kinh tế). Ngài nói có ngày thế giới sẽ không có đủ giấy in bạc và kim loại đúc tiền nên phải dùng một thứ gì đó để thay thế.

 

He predicted that they would use little pellets of chicken shit for money. People would go around with their pockets full of chicken shit. Banks would be full of the stuff and robbers would try to steal it. Rich people would be so proud of how much chicken shit they owned and poor people would dream of winning a big pile of chicken shit in the lottery. Governments would focus excessively on the chicken shit situation in their country, and environmental and social issues would be considered later, once there was enough chicken shit to go around.

What is the essential difference between banknotes, coins and chicken shit? None.

Người tiên đoán cứt gà sẽ được dùng để làm tiền. Như vậy người ta sẽ bỏ túi cứt gà, ngân hàng sẽ đầy cứt gà, tỷ phú sẽ hãnh diện có nhiều cứt gà, bà con nghèo sẽ mong trúng số để được một đống cứt gà. Và chính quyền sẽ đặt trọng tâm vào kinh tế cứt gà, còn các vấn đề về môi sinh xã hội sẽ được đề cập sau khi cứt gà có đầy trong xứ.

Thử hỏi có gì khác biệt giữa bạc giấy, bạc đồng và cứt gà? Nghĩ cho cùng chẳng có gì cả.

 

I enjoyed telling that story. It makes a poignant statement about our current culture. And it is fun. The Singaporean listeners loved it.

Tôi thích kể chuyện trên vì nó phản ảnh nền văn hóa hiện tại của chúng ta. Và nó ngồ ngộ, là lạ. Óc hài hước của dân Singapore rất thích nghe chuyện như vậy.

 

I figured out once that if you decide to have fun when you give a public talk, then you relax. It is psychologically impossible to have fear and fun at the same time. When I am relaxed, ideas flow freely into my mind during my talk, then leave through my mouth with the smoothness of eloquence. Moreover, the audience doesn’t get bored when it is fun. A Tibetan monk once explained the importance of making the audience laugh during a talk. ‘Once they open their mouths,’ he said, ‘then you can throw in the pill of wisdom!’

Tôi khám phá rằng hễ bạn thích thú trong lúc nói trước công chúng bạn sẽ thư giãn ngay. Trên phương diện tâm lý, lo sợ và thích thú không thể đi đôi với nhau. Lúc tôi thư giãn, ý tứ đến với tôi ào ào như suối chảy và tuôn ra một cách dễ dàng, và tôi trở thành hùng biện. Hơn thế nữa thính giả sẽ không thấy chán khi họ thích thú và cười. Cười rất quan trọng. Một nhà sư Tây Tạng có lần nói rằng, “Mỗi lúc họ mở miệng cười bạn có thể thảy vô đó một viên trí tuệ”

 

I never prepare my talks. I prepare my heart and mind instead. Monks in Thailand are trained never to prepare a talk, but to be prepared to talk without notice at any time.

Tôi không mấy khi soạn trước bài giảng. Nhưng tôi luôn luôn chuẩn bị tâm trí mình. Sư tu học ở Thái Lan được huấn luyện để chuẩn bị bài giảng bất cứ lúc nào chớ không chuẩn bị bài giảng trước. Câu chuyện sau minh chứng điều tôi vừa nói.

 

It was Magha Puja, the second most important Buddhist festival of the year in northeast Thailand. I was at Ajahn Chah’s monastery, Wat Nong Pah Pong, with some two hundred monks and many thousands of lay people. Ajahn Chah was very famous; it was my fifth year as a monk. After the evening service, it was time for the main talk. Ajahn Chah would usually give the talk at such a major occasion, but not always. Sometimes he would look down the line of monks and, if his eyes stopped at yours, then you were in trouble. He would ask you to give the sermon. Even though I was such a young monk compared to many others ahead of me, one could never be sure of anything around Ajahn Chah. Ajahn Chah looked down the line of monks. His eyes reached me and went past. I silently sighed with relief. Then his eyes came back up the line again. Guess where they stopped?

‘Brahm,’ Ajahn Chah ordered, ‘give the main sermon.’

Theo truyền thống của miền Đông Bắc Thái Lan, Magha Puja (rằm tháng giêng) là lễ Phật giáo lớn thứ nhì trong năm. Năm ấy - năm thứ năm của tôi - lễ hội được tổ chức tại Wat Pah Pong do Ajahn Chah chủ trì và hai trăm Phật tử tham dự. Sau lễ đêm tới phần thuyết pháp. Thường Ajahn Chah đăng đàn vì bài pháp này rất quan trọng. Nhưng đêm đó Ngài không thuyết. Ngài ngó quanh các sư. Tầm mắt Ngài vừa qua khỏi tôi, may quá. Nhưng chưa phải thoát đâu, Ngài rảo mắt trở lại. Các bạn biết ánh mắt Ngài dừng ở đâu không?

“Brahm”, Ngài ra lệnh “lên nói pháp”

 

There was no way out. I had to give an unprepared talk in Thai for an hour, in front of my teacher, fellow monks and thousands of lay people. It didn’t matter whether it was a good sermon or not. It mattered only that I did it.

Không biết làm sao hơn tôi phải leo lên bục. Tôi phải giảng một tiếng đồng hồ bằng tiếng Thái, trước mặt thầy, bạn và cả ngàn khán giả, trong lúc tôi không có một mảy may chuẩn bị nào hết. Nói hay nói dở không quan trọng, quan trọng là tôi phải nói.

 

Ajahn Chah never told you whether it was a good talk or not. That wasn’t the point. Once he asked a very skilled Western monk to give a sermon to the lay people who had assembled at his monastery for the weekly observance. At the end of an hour, the monk began to wrap up his sermon in Thai. Ajahn Chah interrupted him and told him to continue for another hour. That was tough. Still, he did it. As he prepared to finish up after struggling for the second hour in Thai, Ajahn Chah ordered another hour of sermon. It was impossible. Westerners only know so much Thai. You end up repeating yourself over and over. The audience gets bored. But there wasn’t any choice. At the end of the third hour, most people had left anyway, and the ones remaining were talking among themselves. Even the mosquitoes and the wall lizards had gone to sleep. At the end of the third hour, Ajahn Chah ordered another hour! The Western monk obeyed. He said that after such an experience (and the talk did end after the fourth hour), when you have plumbed the very depths of audience response, you no longer fear speaking in public. That was how we were trained by the great Ajahn Chah.

 Ajahn Chah không bao giờ khen chê. Đó không phải là điểm Ngài muốn dạy. Lần nọ Ngài bảo một sư người phương Tây rất hùng biện lên thuyết giảng cho Phật tử đến tự viện dự lễ hàng tuần. Sau mỗi tiếng sư bắt đầu kết luận bài giảng. Nhưng Ngài yêu cầu ông nói thêm một tiếng nữa. Sau tiếng thứ hai, Ngài yêu cầu ông nói tiếng thứ ba (Thiệt là khó cho các sư phương Tây vì tiếng Thái của họ có giới hạn). Thế là sư diễn giải phải tiếp tục bằng cách lặp đi lặp lại và dĩ nhiên thính chúng mệt mỏi, chán ngán. Vào lúc gần hết giờ thứ ba nhiều người đã bỏ về, số ít còn lại không chú ý mà chỉ chuyện trò với nhau. Cả ruồi, muỗi, thằn lằn, cắc ké cũng đi ngủ. Nhưng cũng chưa xong, Ajahn Chah bảo sư nói thêm một tiếng nữa. Sư vâng lời và hú hồn, Ngài cho phép sư lui sau bốn tiếng đứng trên bục giảng. Tuy nhiên sau lần giảng đó, nhà sư diễn giả bất đắc dĩ cho biết rằng khi bạn đã dò được phản ứng thật sự của cử tọa rồi, bạn không còn sợ nói trước công chúng nữa.

Âu cũng là một phương cách mà chúng tôi học được của Đại sư Ajahn Chah!

 

24. Fear of pain - Sợ đau

 

35. Sợ Hãi 7 sợ đau

Fear is the major ingredient of pain…

 

Fear is the major ingredient of pain. It is what makes pain hurt. Take away the fear and only feeling is left. In the mid-1970s, in a poor and remote forest monastery in northeast Thailand, I had a bad toothache. There was no dentist to go to, no telephone and no electricity. We didn’t even have any aspirin or paracetamol in the medicine chest. Forest monks were expected to endure.

Sợ hãi là một nguyên tố của khổ đau. Nó làm cho cái khổ thêm đau. Rút cái đau ra chỉ còn có cảm thọ khổ. Giữa thập niên 70, lúc tu học trên miền Đông Bắc Thái Lan, tôi bi đau răng. Lâm tự tôi sống rất nghèo, không có điện, điện thoại cũng không. Không có lấy một viên Aspirin hay paracetamol. Các sư trong rừng phải có sức chịu đựng!

 

In the late evening, as often seems to happen with sickness, the toothache grew steadily worse and worse. I considered myself quite a tough monk but that toothache was testing my strength. One side of my mouth was solid with pain. It was by far the worst toothache I had ever had, or have ever had since. I tried to escape the pain by meditating on the breath. I had learned to focus on my breath when the mosquitoes were biting; sometimes I counted forty on my body at the same time, and I could overcome one feeling by focusing on another. But this pain was extraordinary. I would fill my mind with the feeling of the breath for only two or three seconds, then the pain would kick in the door of the mind that I’d closed, and come bursting in with a furious force. I got up, went outside and tried walking meditation. I soon gave that up too. I wasn’t ‘walking’ meditation; I was ‘running’ meditation. I just couldn’t walk slowly. The pain was in control: it made me run. But there was nowhere to run to. I was in agony. I was going crazy.

Lúc về chiều tôi có cảm tưởng rằng tôi càng thêm nhức; hình như bệnh tình có chiều hướng gia tăng vào cuối ngày. Tôi là một sư rất giỏi chịu đựng, nhưng lần nhức răng này là một thách thức khá gay go với tôi. Trọn một bên hàm tôi đau như búa bổ. Đây là lần nhức răng tôi chưa từng trải qua, chưa bao giờ. Tôi thử ngồi thiền sổ tức. Chú tâm vào hơi thở vô thở ra tôi thường quên hết mọi đau nhức; có lần tôi đếm được những bốn mươi mận đỏ khắp châu thân sau thời thiền vậy mà tôi đâu có hay bị muỗi cắn lúc nào. Nhưng lần đau răng này thật lạ kỳ. Nó không để tôi thiền; tôi tập trung chú ý được chừng hai ba giây là nhiều. Nó tới dồn dập như giông bão trong lúc tôi cố khép kín cửa tâm mình đối với mọi khổ đau. Tôi đứng dậy đi thiền hành. Cũng không được. Tôi không “thiền hành” mà “thiền chạy”; cơn đau kiểm soát tôi, nó không cho tôi bước mà bắt tôi chạy. Nhưng chạy đi đâu bây giờ. Tôi đau đớn cực độ, tôi muốn phát điên.

 

I ran back into my hut, sat down and started chanting. Buddhist chants are said to possess supernormal power. They can bring you fortune, drive away dangerous animals, and cure sickness and pain—or so it is said. I didn’t believe it. I’d been trained as a scientist. Magic chanting was all hocus-pocus, only for the gullible. So, I began chanting, hoping beyond reason that it would work. I was desperate. I soon had to stop that too. I realized I was shouting the words, screaming them. It was very late and I was afraid I would wake up the other monks. With the way I was bellowing out those verses, I would probably have woken the whole village a couple of kilometers away! The power of the pain wouldn’t let me chant normally.

Sau cùng tôi chạy vô cốc, ngồi xuống và tụng kinh. Người ta hay khen kinh Phật có thần lực nhiệm mầu – đem đến vận may, xua đuổi thú dữ và chữa bệnh tật cũng như đau khổ. Tôi không tin như vậy vì gốc tôi là thầy giáo khoa học. Vả lại tôi tin kinh là phép kỳ diệu không khác nào như tin câu phù phép của kẻ cả tin. Tuy nhiên tôi vẫn tụng, cầu may được chữa hết đau. Vô vọng. Tôi ngưng tụng luôn. Nói là tụng kinh chớ thật sự tôi la, tôi hét lời kinh, và tiếng hét của tôi dám đánh thức cả làng cách tự viện vài cây số ngàn chứ chẳng phải chơi. Cái đau của tôi có ma lực không cho tôi tụng trầm bổng như thường ngày, và dĩ nhiên tôi sợ tiếng ồn sẽ đánh thức các bạn tu vì đã khuya rồi.

 

I was alone, thousands of miles from my home country, in a remote jungle with no facilities, in unendurable pain with no escape. I’d tried everything I knew, everything. I just couldn’t go on. That’s what it was like.

A moment of sheer desperation like that unlocks doors into wisdom, doors that are never seen in ordinary life. One such door opened to me then, and I went through it. Frankly, there was no alternative.

Tôi đang ở trong rừng sâu, không phương tiện, cách quê hương cả mấy ngàn cây số. Tôi đang bị cái đau dằn vặt, không lối thoát, dầu tôi đã làm mọi cách. Tuyệt vọng!

Phút chốc tuyệt vọng bất chợt biến thành chiếc chìa khóa mở cửa cho kho tàng trí tuệ, cánh cửa mà đời sống thông thường hằng ngày không bao giờ mở. Cánh cửa mở cho tôi bước vô. Tình thật tôi chẳng còn lối đi nào khác hơn.

 

I remembered two short words: ‘let go’. I had heard those words many times before. I had expounded on their meaning to my friends. I thought I knew what they meant: such is delusion. I was willing to attempt anything, so I tried letting go, one-hundred per cent letting go. For the first time in my life, I really let go.

Tôi chợt nhớ hai tiếng “buông xả”. Tôi từng nghe hai tiếng này nhiều lần lắm rồi. Tôi từng giảng giải cho bạn tôi nghe. Tôi nghĩ tôi hiểu rõ ý nghĩa của hai tiếng đó. Tôi muốn thử mọi thứ nên tôi thử buông xả, bỏ hoàn toàn, bỏ một trăm phần trăm. Và lần đầu tiên trong đời tôi thật sự buông xả.

 

What happened next shook me. That terrible pain immediately vanished. It was replaced with the most delectable bliss. Wave upon wave of pleasure thrilled through my body. My mind settled into a deep state of peace, so still, so delicious. I meditated easily, effortlessly now. After my meditation, in the early hours of the morning, I lay down to get some rest. I slept soundly, peacefully. When I woke up in time for my monastic duties, I noticed I had a toothache. But it was nothing compared to the previous night.

Điều xảy ra tiếp theo làm tôi rất lấy làm lạ: cái đau tuyệt vọng của tôi tan biến tức thời. Nó bị thay thế bởi niềm hưng phấn tuyệt vời đến với tôi như những đợt sóng liên tục. Tâm tôi trở nên định tĩnh, an lạc vô vàn. Bấy giờ tôi vào thiền dễ dàng. Sau buổi thiền ban mai tôi nằm xuống nghĩ ngơi. Tôi ngủ một giấc ngon lành và êm đềm. Lúc thức dậy để công phu tôi có ghi nhận chiếc răng đau, nhưng cơn đau không còn quái ác như đêm hôm trước nữa.

 

25. Letting go of pain - Buông Bỏ Cái Đau

 

35. Sợ Hãi 8 off pain

Pain is personal and cannot be measured.

 

In the previous story, it was the fear of the pain of that toothache that I had let go of. I had welcomed the pain, embraced it and allowed it to be. That was why it went.

Trong câu chuyện trên tôi buông bỏ nỗi sợ hãi về cái đau răng của tôi. Trước đó tôi đã mời gọi cái đau, ôm ấp nó và nó cho phép nó có mặt. Do đó tôi mới có vấn đề.

 

Many of my friends who have been in great pain have tried out this method and found it does not work! They come to me to complain, saying my toothache was nothing compared to their pain. That’s not true. Pain is personal and cannot be measured. I explain to them why letting go didn’t work for them using this story of my three disciples.

Nhiều bạn tôi bị đau và thử dùng kinh nghiệm của tôi nhưng không được như ý. Họ đến nói với tôi rằng cái răng của tôi không thấm tháp gì so với cái đau xé thịt của họ. Không phải vậy. Đau là cảm thọ riêng tư không thể đo lường được. Tôi dẫn giải cho họ biết tại sao buông xả không hiệu nghiệm đối với họ bằng cách kể cho họ nghe chuyện của ba đệ tử của tôi sau đây:

 

The first disciple, in great pain, tries letting go.

‘Let go,’ they suggest, gently, and wait.

‘Let go!’ they repeat when nothing changes.

‘Just let go!’

‘Come on, Let Go.’

‘I’m telling you, Let! Go!’

‘LET GO!’

Đệ tử thứ nhất đau và thử buông bỏ.

“Buông bỏ” anh được khuyến khích, đơn giản và nhẹ nhàng. Rồi anh chờ đợi kết quả. “Buông bỏ” người ta lặp lại cho anh khi chưa thấy chuyện gì xảy ra.

“Chỉ cần buông bỏ!”

“Này hãy buông bỏ”

“Tôi nói rằng Buông và Bỏ!”

“BUÔNG BỎ!”

 

We may find this funny, but that is what we all do most of the time. We let go of the wrong thing. We should be letting go of the one saying, ‘Let go.’ We should be letting go of the ‘control freak’ within us, and we all know who that is. Letting go means ‘no controller’.

Bạn có thể xem đó là chuyện lạ kỳ nhưng đó là chuyện chúng ta làm hằng ngày. Chúng ta buông bỏ không phải cái cần buông bỏ. Chúng ta nên buông bỏ lời khuyên, câu nhắc nhở, hoặc người ra lệnh phải “buông bỏ”. Chúng ta cần buông bỏ “con quái vật đang kiểm soát” chúng ta, và tất cả chúng ta đều biết đó là ai. Buông bỏ tức không còn kiểm soát nữa.

 

The second disciple, in terrible pain, remembers this advice and lets go of the controller. They sit with the pain, assuming that they’re letting go. After ten minutes the pain is still the same, so they complain that letting go doesn’t work. I explain to them that letting go is not a method for getting rid of pain, it is a method for being free from pain. The second disciple had tried to do a deal with pain: ‘I’ll let go for ten minutes and you, pain, will disappear. OK?’

That is not letting go of pain; that is trying to get rid of pain.

Đệ tử thứ nhì, lúc bị đau nhớ điều vừa nói là buông và bỏ “con quái vật kiểm soát”. Anh ngồi chịu đau tin rằng cơn đau sẽ tan biến. Sau mười phút anh không thấy bớt và than rằng phương pháp buông xả không hiệu nghiệm. Tôi dẫn giải rằng buông xả không phải là một phương pháp trị bệnh mà là một phương pháp giải thoát khỏi cái đau. Anh bèn mặc cả “Tôi sẽ buông bỏ trong vòng mười phút, còn chú là cái đau, chú sẽ chấm dứt nha”

Đó không phải là buông bỏ cái đau mà tìm cách gạt bỏ cái đau.

 

The third disciple, in horrible pain, says to that pain something like this: ‘Pain, the door to my heart is open to you, whatever you do to me. Come in.

 

’The third disciple is fully willing to allow that pain to continue as long as it wants, even for the rest of their life; to allow it even to get worse. They give the pain freedom. They give up trying to control it. That is letting go. Whether the pain stays or goes is now all the same to them. Only then does the pain disappear.

Đệ tử thứ ba nói vơi cái đau mình đang trải nghiệm: “Đau, cửa tâm tôi lúc nào cũng rộng mở. Xin mời, dầu chú có làm gì với tôi cũng không sao”. Anh để cho cái đau tiếp tục bao lâu cũng được, suốt đời anh cũng kệ. Nếu nó có tăng thêm cũng không sao. Anh dành cho cái đau sự tự do hoàn toàn, không tìm cách khống chế nó. Nó ở hay đi tùy nó, anh không hề bận tâm. Đó mới thật là buông xả, và chỉ bấy giờ anh mới cảm thấy hết đau.

 

26. TM or how to transcend-dental medication - TM (Transcendental Meditation được tạm dịch là Thiền tiên nghiệm) - Hay Làm Sao Để Không Cần Thuốc Đau Răng

 

35. Sợ Hãi 9 nhổ răng

Once the tooth was out, it didn’t hurt much at all

 

A member of our community has very bad teeth. He has needed to have many teeth pulled out, but he’d rather not have the anesthetic. Eventually, he found a dental surgeon in Perth who would extract his teeth without anesthetic. He has been there several times. He finds it no problem.

Một đệ tử của thiền viện có hàm răng rất tệ. Anh cần phải nhổ nhiều răng, nhưng anh muốn được gây mê. Sau cùng anh gặp một nha sĩ ở Perth có thể nhổ răng không cần thuốc mê hay thuốc tê. Anh đến với ông nhiều lần, và mọi việc đều suông sẻ.

 

Allowing a tooth to be extracted by a dentist without anesthetic might seem impressive enough, but this character went one better. He pulled out his own tooth without anesthetic saw him, outside the monastery workshop, holding a freshly pulled tooth smeared with his blood, in the claws of an ordinary pair of pliers. It was no problem: he cleaned the pliers of blood before he returned them to the workshop.

Nha sĩ nhổ răng không cần thuốc tê là một chuyện đáng nể rồi, vậy mà còn chưa chịu. Anh muốn tự nhổ răng mình. Một hôm chúng tôi thấy anh đứng trước cửa xưởng bảo quản của tự viện, dùng kềm tự nhổ răng, máu me tùm lum. Nhưng anh thản nhiên lau kềm trước khi trả lại xưởng.

 

I asked him how he had managed to do such a thing. What he said exemplifies why fear is the major ingredient of pain.

‘When I decided to pull out my own tooth—it was such a hassle going all the way to the dentist—it didn’t hurt. When I walked to the workshop, that didn’t hurt. When I picked up the pair of pliers, it didn’t hurt. When I held the tooth in the grip of the pliers, it still didn’t hurt. When I wiggled the pliers and pulled, it hurt then, but only for a couple of seconds. Once the tooth was out, it didn’t hurt much at all. It was only five seconds of pain, that’s all.’

Tôi hỏi sao anh gan vậy, anh đáp:

“Lúc tôi quyết định nhổ răng, tôi không thấy đau. Lúc tôi đi tới xưởng, tôi không thấy đau. Lúc tôi mượn kềm, tôi không thấy đau. Lúc tôi dùng kềm kẹp cái răng, tôi không thấy đau. Lúc tôi lật răng, tôi thấy đau nhưng chỉ trong vài giây. Lúc đem răng ra tôi không thấy đau chút nào hết. Tôi chỉ bị đau chừng năm giây, vậy đến nha sĩ làm gì cho tốn tiền và mất công đi!”

 

You, my reader, probably grimaced when you read this true story. Because of fear, you probably felt more pain than he did! If you tried the same feat, it would probably hurt terribly, even before you reached the workshop to get the pliers. Anticipation—fear—is the major ingredient of pain.

Khi đọc chuyện thật này chắc bạn không khỏi nhăn mày. Vì sợ có thể bạn đau hơn anh ấy nữa là khác! Nếu bạn thử làm như anh ấy bạn sẽ bị đau, đau trước khi bạn đi tới xưởng để mượn kềm. Tiên đoán – sợ hãi – là thành tố chánh của đau khổ vậy.

 

27. No worries - Đừng lo

 

35. Sợ Hãi 10 no worries

Letting go of ‘the controller’, staying more with this moment and being open to our uncertain future…

 

Letting go of ‘the controller’, staying more with this moment and being open to the uncertainty of our future, releases us from the prison of fear. It allows us to respond to life’s challenges with our own original wisdom, and gets us out safely from many a sticky situation.

Buông bỏ “anh kiểm soát viên”, cố sống trong khoảnh khắc hiện tại và tìm hiểu sự không biết chắc của tương lai có thể giải thoát chúng ta khỏi ngục tù của sợ hãi, giúp chúng ta đối phó với các thách thức bằng trí tuệ sẵn có của chúng ta, và đưa chúng ta đến bờ an toàn. Tôi xin kể hai chuyện “đừng lo” sau đây:

 

I was standing in one of the six queues at the immigration barrier at Perth airport, returning from a wonderful trip to Sri Lanka via Singapore. The queues were moving slowly; they were obviously doing a thorough check. A customs officer emerged from a side door in the lobby, leading a small sniffer-dog trained to detect drugs. The incoming travelers smiled nervously as the customs officer led the sniffer dog up and down each line. Even though they were not carrying any drugs, you could detect a release of tension after the dogs niffed them and moved away to someone else.

Ngày kia tôi trở về từ Sri Lanka qua Singapore và đứng trong một cửa sáu hàng chờ qua quầy di trú ở Perth. Hàng di chuyển rất chậm vì sở dĩ trú muốn kiểm soát chặt chẽ mọi người định cư. Có một viên chức quan thuế mở cửa dắt chó vô phòng chờ. Hành khách tỏ vẻ bồn chồn lúc chú chó đi lên đi xuống mỗi hàng để đánh hơi xem có đồ quốc cấm nhập lậu không. Dầu không có mang gì trái phép họ vẫn thở khì khi chú chó rời họ đi qua ngửi người khác.

 

When the cute little dog reached me and sniffed, it stopped. It buried its little muzzle in my robe at the waist and wagged its tail in rapid, wide arcs. The customs officer had to yank at the leash to pull the dog away. The passenger in line ahead of me, who had been quite friendly before, had now moved a step further away from me. And I was sure that the couple behind had moved a step backwards.

Lúc chú chó nhỏ này đến gửi tôi, nó dừng lại, đút đầu vô y tôi và ngoắt đuôi lia lịa. Viên quan phải nắm dây kéo nó ra. Ông hành khách đứng trước tôi xê lên một bước dầu trước đó ông tỏ ra rất thân thiện với tôi. Và tôi tin chắc hai vợ chồng đứng sau tôi cũng lùi xuống một bước.

 

After five minutes, I was much closer to the counter, when they brought the sniffer dog around again. Up and down the lines the dog went, giving each traveler a little sniff and then moving on. When it came to me it stopped again. Its head went in my robe and its tail went crazy. Again, the customs officer had to forcefully pull the dog away. I felt all eyes on me now. Even though many people might become a little worried at this point, I was completely relaxed. If I went to jail, well, I had many friends there and they feed you much better than they do in a monastery!

Sau năm phút tôi nhích gần quầy di trú hơn. Cùng lúc chú chó nhỏ được dắt trở lại. Nó đi lên đi xuống, ngửi hết người này đến người khác. Lúc tới tôi chó dừng lại nữa. Như lần trước nó đút đầu vô y tôi và ngoắt đuôi lia lịa. Viên quan lại phải lôi nó ra. Tôi có cảm tưởng mọi mắt đang hướng nhìn tôi, không chừng có người còn lo giùm tôi nữa là khác. Nhưng tôi vẫn tỉnh bơ. Tôi nghĩ nếu có vô tù tôi sẽ có thêm bạn và có thể còn được ăn uống ngon hơn ở tự viện!

 

When I reached the customs check, they gave me a thorough search. I had no drugs: monks don’t even take alcohol. They didn’t strip-search me; I think this was because I showed no fear. All they did was ask me why I thought the sniffer-dog had stopped only at me. I said that monks have great compassion for animals, and maybe that was what the dog sniffed; or maybe the dog was a monk in one of its past lives. They let me go through after that.

Lúc đến quầy hải quan tôi bị xét rất kỹ. Tôi không đem thuốc; tu sĩ còn không được uống rượu kia mà! Tôi không bị biểu phải cởi y; có lẽ vì tôi không lộ vẻ gì sợ hãi hết. Rồi họ hỏi tại sao chú chó chỉ dừng lại với tôi. Tôi đáp tu sĩ chúng tôi có lòng từ và có lẽ chú chó ngửi thấy lòng từ ấy. Hoặc giả chú chó đó từng là một nhà sư trong tiền kiếp. Họ để tôi qua.

 

I came very close to getting punched once, by a big Australian who was angry and half-drunk. Lack of fear saved the day as well as my nose.

Lần nọ tôi xém bị một chàng trai người Úc cao to đấm cho mấy cú vì anh giận và đang nửa say nửa tỉnh. Vô úy cứu cái mũi tôi hôm ấy.

 

We had just moved into our new city temple, a little to the north of Perth. We were having a grand opening ceremony and, to our surprise and delight, the then Governor of Western Australia, Sir Gordon Reid, and his wife, had accepted our invitation to attend. I was given the job of organizing the marquee for the courtyard and the chairs for the visitors and VIPs. I was told by our treasurer to get the very best; we wanted to put on a very good show.

Tôi vừa dọn tới một tự viện nằm về phía Bắc của thành phố Perth. Chúng tôi tổ chức lễ lạc thành và rất vinh hạnh được Ông bà Thống Đốc Gordon Reid của Tây Úc nhận lời đến dự. Tôi được giao cho nhiệm vụ lên bảng chào mừng trong sân và xếp ghế cho khách quý. Vị thủ quỹ yêu cầu tôi nên chu đáo để buổi lễ thành công như ý.

 

After a little searching, I found a very expensive hire company. It was located in one of the rich western suburbs of Perth and hired out marquees for the garden parties of the millionaires. I explained what I wanted and why it had to be

the best. The woman with whom I dealt said she understood, so the order was placed.

Sau phút tìm hiểu, tôi gặp được một công ty cho mướn hàng trong một vùng ngoại ô sang trọng bên phía Tây Perth; công ty chuyên cho mướn đồ đạc để tổ chức tiệc sân vườn của tỷ phú. Tôi giải thích lý do tôi chọn công ty này – để có một lễ hội hoành tráng – cô thư ký nói chuyện với tôi hiểu lý do và tôi đặt hàng.

 

When the marquee and chairs arrived late on Friday afternoon, I was around the back of our new temple helping someone else. When I came to check the delivery, the truck and the men had already gone. I couldn’t believe the state of the marquee. It was covered with red dust. I was disappointed, but the problem could be fixed. We began to hose the marquee down. Then I checked the visitor’s chairs and they were just as filthy. Rags were brought out and my priceless volunteers began to clean each chair. Lastly, I looked at the special chairs for the VIPs. They were special: not one had legs the same length! They all wobbled, a lot.

Hàng đến lúc xế chiều thứ sáu. Bấy giờ tôi đang bận giúp đằng sau tự viện. Chừng tôi ra kiểm hàng, anh tài xế và anh giao hàng đã về. Tôi không thể tưởng tượng được tình trạng tệ hại của tấm bảng; nó đóng một lớp bụi đỏ chót, tôi rất thất vọng nhưng không sao, chỉ mất công chút thôi. Chúng tôi lui cui chùi rửa bảng. Xong, tôi đến khám ghế ngồi, dơ bẩn không thể tả. Các người tình nguyện quý báu của tôi đem giẻ ra lau, lau từng cái một.

Sau cùng tôi xem xét các ghế dành cho quan khách. Không có cái nào là không xiêu vẹo.

 

This was unbelievable. This was too much. I rushed to the phone, called the hire company and caught the woman just as she was about to leave for the weekend. I explained the situation, emphasizing that we can’t have the Governor of WA rocking on a wobbly chair during the ceremony. What if he falls off? She understood, apologized, and assured me that she would have the chairs changed within the hour.

Thật quá đáng! Tôi chạy thẳng tới điện thoại bốc máy gọi công ty. Rất may tôi gặp được cô thư ký tiếp chuyện với tôi lúc trước; cô sắp sửa ra về để nghỉ cuối tuần. Tôi giải thích tình trạng cho cô nghe, nhấn mạnh điểm có thể ông bà Thống Đốc sẽ “xích đu” trên ghế dành cho ông bà. Cô thông cảm, xin lỗi và hứa sẽ đổi các ghế quan khách ngay, trong vòng một tiếng.

 

This time I waited for the delivery truck. I saw it turning into our road. Halfway up the road, some sixty meters from the temple, with the truck still travelling quite fast, one of the men jumped out and came running toward me with wild eyes and a clenched fist.

‘Where’s the bloke in charge?’ he yelled. ‘I want to see the bloke in charge!’

Tôi ngồi chờ xe chở hàng đổi tới. Tôi thấy có chiếc xe tải vừa chặt cua qua cửa đường tự viện. Xe chạy được nửa đường, còn chừng sáu mươi thước sẽ đến cửa, có một người đàn ông nhảy xuống, chạy tới tôi, mắt tròn xoe tay cung thành quả đấm. Anh la lớn:

“Tên nào sắp xếp vụ này? Tao muốn gặp nó”

 

I was to find out later that our first delivery was their last for the week. After us, the men had tidied up and retired to the pub to begin the weekend. They must have been well into their weekend drinking when the manager came into the pub and ordered them all back to work. The Buddhists needed their chairs changed.

I went up to that man and said gently, ‘I’m the bloke in charge. How can I help?’

(về sau tôi biết ra là chuyện giao hàng hôm đó là chuyến chót trong tuần. Tất cả công nhân được về quê để vô quán nhậu cuối tuần. Đang nhậu, họ bị ông quản lý gọi trở lại công ty vì đám Phật giáo muốn đổi ghế. Do đó anh chàng say này mới giận như vậy).

Tôi đối mặt với anh và từ tốn nói: “Tôi là người chịu trách nhiệm. Anh có cần gì không?”

 

He moved his face closer to mine, with his right fist still clenched, almost touching my nose. His eyes were burning with anger. I smelt the strong odor of beer from his mouth only a few inches away. I felt neither fear nor arrogance. I just relaxed.

nh đưa mặt sát tôi và tay nắm anh kề mũi tôi. Mắt anh phừng phừng, miệng anh nồng nặc mùi bia. Tôi không sợ mà cũng không kênh, tôi chỉ bình tĩnh.

 

My so-called friends stopped cleaning the chairs to watch. Not one of them came to help me. Thanks a lot, friends! The face-off lasted a couple of minutes. I was fascinated by what was happening. That angry worker was frozen by my response. His conditioning was only used to seeing fear or counter-aggression. His brain did not know how to respond to someone relaxed when one of his fists was next to their nostrils. I knew he could not punch me, nor move away. Fearlessness bewildered him.

Các người mà tôi gọi là bạn dừng tay lau ghế, đứng nhìn. Không ai tới “cứu” tôi hết. Cám ơn các bạn! Mặt đối mặt trong vài giây. Tôi sững sờ vì chuyện xảy ra. Anh lao công nóng tánh kia đứng “như trời trồng” trước thái độ của tôi; thông thường trong tình huống như vậy nếu anh không gặp sự sợ hãi thì cũng gặp sự chống cự của đối phương. Trí óc anh không biết phản ứng như thế nào đối với một người quá ư bình tĩnh, lúc tay nắm anh đã kề mũi người. Tôi biết anh không thể đấm tôi mà cũng không thể thụt lui. Vô úy làm anh “chết đứng”.

 

In those few minutes the truck had parked and the boss came towards us. He put his hand on the frozen worker’s shoulder and said, ‘Come on, let’s unload the chairs.’ That broke the impasse, giving him a way out.

I said ‘Yes. I’ll give you a hand.’ And we unloaded the chairs together.

Trong mấy phút đó xe ngừng và sếp anh đến. Ông đặt tay lên vai anh và nói: “Này, hãy xuống ghế đi.” Chỉ thị ông gỡ giùm anh thế bí và giúp anh lối thoát.

“Tôi sẽ giúp cho anh một tay”, tôi nói. Và chúng tôi phụ nhau khiêng ghế xuống xe.

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. https://tienvnguyen.net/p147a880/chuong-3-
  2. https://www.bps.lk/olib/bp/bp619s_Brahm_Opening-The-Doors-Of-Your-Heart.pdf
  3. Photo 2: https://www.pinterest.com/pin/477874210446284165/
  4. Photo 3: https://www.facebook.com/293119360838403/photos/dont-worry-about-the-future/915112748639058/
  5. Photo 4: https://www.youtube.com/watch?v=evkbm_UnFuI
  6. Photo 5: http://wwqw.you2repeat.com/watch/?v=dnAQTJde8e4
  7. Photo 6: https://www.youtube.com/watch?v=JS94G3bdHOo
  8. Photo 7: https://www.facebook.com/293119360838403/photos/fear-is-the-main-ingredient-of-pain/805930939557240/
  9. Photo 8: https://www.youtube.com/watch?v=Z-OSS79k1mI
  10. Photo 9: https://www.clipart.email/clipart/pulling-a-tooth-clipart-221225.html
  11. Photo 10: https://www.amazon.ca/No-Worries-Approach-Meditation-Actuality/dp/1925590038

 

Read 435 times

Tìm Bài - Search

Main Menu

Xem Nhiều Nhất - Most Read

05. Kiều mạch là gì và lợi ích với sức khỏe?  - What is buckwheat and its health benefits? – Song ngữ 05. Kiều mạch là gì và lợi ích với sức khỏe? - What is buckwheat and its health benefits? – Song ngữ Thursday, 12 August 2021 ... Kiều mạch ngày càng được biết đến là... More detail
[7-12] - Chuyện Vui Ngắn - Short Funny Stories – Song ngữ [7-12] - Chuyện Vui Ngắn - Short Funny Stories – Song ngữ Thursday, 05 August 2021 Once a friend of mine and I agreed that it would be helpful for... More detail
[13-20] - Chuyện Vui Ngắn - Short Funny Stories – Song ngữ [13-20] - Chuyện Vui Ngắn - Short Funny Stories – Song ngữ Friday, 13 August 2021 Head of Business College: "In teaching shorthand and typewriting,... More detail
06 – Tìm Hiểu Nhâm - Đốc Mạch – Luyện Vòng Tiểu Chu Thiên          The polarity Process: Energy and Form 06 – Tìm Hiểu Nhâm - Đốc Mạch – Luyện Vòng Tiểu Chu Thiên The polarity Process: Energy and Form Saturday, 20 November 2021 Theo Ths. BS Nguyễn Thị Tuyết Mai (Bác sĩ chuyên... More detail
25. Căn Bản Bát chánh đạo - The Noble Eightfold Path – Song ngữ 25. Căn Bản Bát chánh đạo - The Noble Eightfold Path – Song ngữ Wednesday, 24 November 2021 Right vision, or understanding: understanding that life always... More detail
0.png0.png1.png9.png3.png2.png0.png2.png
Today40
Yesterday334
This week40
This month6832
Total193202

Visitor Info

  • Browser: Unknown
  • Browser Version:
  • Operating System: Unknown

Who Is Online

2
Online

2024-05-20