Shelter against Death
Trốn Thần Chết
English: www.buddhanet.net
Việt ngữ: Nguyễn Văn Tiến
Compile: Lotus group
37. Trốn Thần Chết - Shelter against Death – Song ngữ
Trốn Thần Chết - Shelter against Death – Song ngữ
The Story of Three Groups of Persons, Verse 127
Câu Chuyện Về Ba Nhóm Nhà Sư, Kệ 127
VERSE 127 - BÀI KỆ 127:
127. Na antalikkhe na samuddamajjhe
na pabbatānaṃ vivaraṃ pavissa
na vijjati so jagatippadeso
yatthaṭṭito muñceyya pāpakammā. (9:12)
Neither in sky nor surrounded by sea,
Nor by dwelling in a mountain cave,
Nowhere is found that place on earth
Where one’s from evil kamma free.
Dù cho có bay-được lên trời cao, dù cho có lặn-được xuống đáy biển,
Dù cho có chui-được vào hang núi sâu,
Hoặc là chạy-trốn đến bất cứ nơi nào trên chốn trần gian nầy,
Cũng không-thể nào trốn-thoát được nghiệp-ác do mình đã tạo ra.
A group of monks were on their way to pay homage to the Buddha and they stopped at a village on the way. Some people were cooking alms-food for those monks, when one of the houses caught fire and a ring of fire flew up into the air. At that moment, a crow came flying, got caught in the ring of fire and dropped dead in the central part of the village.
Có một nhóm nhà sư trên đường họ đi đến đảnh lễ Đức Phật, rồi họ dừng lại ở một ngôi làng trên đường họ đi. Có một số Phật Tử đang nấu ăn, để cúng dường cho những nhà sư nầy, thì lúc đó có một ngôi nhà bốc cháy, và tạo ra một vòng lửa bay lên trên không trung. Vào ngay lúc đó, có một con quạ đã bay ngang qua, chạm phải cái vòng lửa nầy, bị chết cháy, và xác nó rơi xuống giữa làng.
The monks, seeing the dead crow, observed that only the Buddha would be able to explain for what evil deed this crow had to die in this manner. After taking alms-food, they went to the Buddha, to ask about the crow.
Các nhà sư trông thấy xác con quạ chết, rồi nghĩ rằng chỉ có Đức Phật là có thể giải thích được, là con quạ nầy đã tạo ra nghiệp ác gì, mà bây giờ nó phải chết thảm như thế nầy. Sau khi khất thực xong, các nhà sư nầy đến gặp Đức Phật, rồi hỏi ngài về con quạ.
Another group of monks were on their way to pay homage to the Buddha. When they were in the middle of the ocean, the boat could not be moved. So, lots were drawn to find out who the unlucky one was. Three times the lot fell on the wife of the skipper. Then the skipper said sorrowfully, “Many people should not die on account of this unlucky woman; tie a pot of sand to her neck and throw her into the water.” The woman was thrown into the sea and the ship started to move. On arrival at their destination, the monks disembarked and continued on their way to the Buddha. They also intended to ask the Buddha due to what evil kamma the unfortunate woman was thrown overboard.
Cũng có một nhóm nhà sư khác cũng trên đường họ đi đảnh lễ Đức Phật. Lúc họ ở giữa biển, tầu họ đi không-có cách nào di chuyển được. Họ nghĩ ra cách rút thăm để tìm xem ai là người gây ra chuyện không may mắn nầy. Sau ba lần rút thăm, bà vợ của ông thuyền trưởng đều rút phải tấm thăm không may mắn. Cho nên, ông thuyền trưởng nói giọng buồn bã, "Nhiều người sẽ phải chết vì người đàn bà không may mắn nầy; hãy cột vào cổ bà ta một bình đựng cát, rồi ném bà ta xuống biển." Sau khi ném người đàn bà xuống biển, con tầu bắt đầu di chuyển lại được. Khi con tầu đến nơi cập bến, các nhà sư lên bờ, rồi họ tiếp tục đi trên con đường đến gặp Đức Phật. Họ cũng có dự định hỏi Đức Phật về người đàn bà không may mắn đã tạo ra nghiệp ác gì, mà bây giờ bà phải chịu cảnh bị ném xuống biển.
“Terrifying moment 'intoxicated' woman plunges off cruise ship into sea”
“Giây phút kinh hoàng người phụ nữ say rượu lao mình xuống biển”
A group of seven monks also went to pay homage to the Buddha. On the way, they enquired at a monastery and they were directed to a cave, and there they spent the night; but in the middle of the night, a large boulder slipped off from above and closed the entrance. In the morning, the monks from the nearby monastery coming to the cave, saw that and they went to bring people from seven villages. With the help of these people they tried to move the boulder, but the seven monks were trapped in the cave without food or water for seven days. On the seventh day, the boulder moved miraculously by itself, and the monks came out and continued their way to the Buddha. They also intended to ask the Buddha due to what previous evil deed they were thus shut up for seven days in a cave.
Cũng có nhóm khác gồm bẩy nhà sư, họ cũng đi đảnh lễ Đức Phật. Trên đường đi, họ hỏi thăm đường đi đến tu viện, rồi họ được hướng dẫn đến một hang động, và họ đã ở đó qua đêm; tuy nhiên, vào giữa đêm, một tảng đá lớn từ phía trên đã rơi xuống, và đóng lại cửa ra vào. Sáng hôm sau, các nhà sư ở tu viện gần đó đi đến hang động, họ thấy tảng đá đã chận cửa, rồi họ kêu gọi các người dân từ bẩy làng đến giúp. Những người dân đến giúp cố sức di chuyển tảng đá nhưng không được, cho nên bẩy nhà sư bị kẹt trong hang không có thức ăn và nước uống trong bẩy ngày. Vào ngày thứ bẩy, tảng đá tự động di chuyển một cách kỳ lạ, và các nhà sư đi ra ngoài, rồi tiếp tục cuộc hành trình đến Đức Phật. Họ cũng có dự định hỏi Đức Phật là họ đã tạo nghiệp ác gì, mà bây giờ họ phải bị nhốt vào hang động trong bảy ngày.
“A large boulder blocked the cave entrance”
“Một tảng đá lớn đã chặn cửa hang”
The three groups of travelling monks went to the Buddha. Each group related to the Buddha what they had seen on their way and the Buddha answered their questions.
Ba nhóm nhà sư du hành đến gặp Đức Phật. Rồi, mỗi nhóm kể Đức Phật nghe những điều họ đã gặp phải trên đường đi, và Đức Phật đã trả lời các câu hỏi của họ như sau.
The Buddha’s answer to the first group: “Monks, once there was a farmer who had a very lazy and stubborn ox. The farmer, in anger, tied a straw rope round the neck of the ox and set fire to it, and the ox died. On account of this evil deed, the farmer had suffered for a long time in Hell (Niraya). He had been burnt to death in the last seven existences.” The past actions brought on the present suffering.
Câu trả lời của Đức Phật cho nhóm đầu tiên là: "Nầy các Tỳ Kheo, ngày xưa có một ông nông dân, ông có một con bò rất lười biếng và cứng đầu. Ông nông dân nầy, trong lúc giận dữ, đã buộc một sợi dây thừng làm bằng rơm chung quanh cổ bò, rồi đốt lửa sợi dây, nên con bò bị chết. Vì việc làm ác đức nầy, ông nông dân bị đọa Địa Ngục (Niraya) trong một thời gian rất lâu. Ông đã bị đốt chết trong bẩy kiếp vừa qua." Vì, những việc làm ác trong quá khứ, sẽ mang đến đau khổ trong hiện tại.
The Buddha’s answer to the second group: “Monks, once there was a woman who had a dog. Whatever she did and wherever she went the dog always followed her. As a result, some young boys would poke fun at her. She was very angry and felt so ashamed that she planned to kill the dog. She filled a pot with sand, tied it round the neck of the dog and threw it into the water; and the dog was drowned. On account of this evil deed, that woman had suffered for a long time and, in serving the remaining part of the effect, she had been thrown into the water to be drowned.”
Câu trả lời của Đức Phật cho nhóm thứ nhì là: "Nầy các Tỳ Kheo, ngày xưa có một người đàn bà nuôi một con chó. Bất cứ bà làm gì, và bất cứ bà đi đâu, con chó luôn luôn đi theo sau bà. Kết quả là một vài cậu thiếu niên thấy con chó như thế, nên trêu chọc bà. Bà rất tức giận, rồi bà cảm thấy xấu hổ, nên bà dự định giết chết con chó. Bà lấy một cái bình chứa đầy cát, cột quanh cổ chó, và ném chó xuống sông; nên con chó bị chết đuối. Vì việc làm ác đức nầy, người đàn bà nầy đã phải chịu đựng đau khổ trong một thời gian rất lâu, và do nghiệp-ác chưa trả xong, bà ta đã bị ném xuống biển, rồi bị chết đuối."
The Buddha’s answer to the third group: “Monks, once, seven cowherds saw an iguana going into a mound and, for fun, they closed all the outlets of the mound. After completely forgetting the iguana that was trapped in the mound. Only after seven days did they remember what they had done and hurried to the scene of their mischief to let the iguana out. On account of this evil deed, you seven have been imprisoned together for seven days without any food.”
“…an iguana going into a mound…”
“…một con kỳ nhông bò vào một gò đất…”
Câu trả lời của Đức Phật cho nhóm thứ ba là: "Nầy các Tỳ Kheo, ngày xưa có bẩy người chăn-bò (kiếp trước của bẩy nhà sư) thấy một con kỳ nhông bò vào một gò đất, và để đùa nghịch, họ đóng tất cả các cửa ra vào của gò đất. Sau đó, họ hoàn toàn quên mất là con kỳ nhông đã bị nhốt trong gò đất. Bẩy ngày sau đó, họ mới nhớ đến chuyện họ đã đùa nghịch, và họ vội vã trở lại chốn cũ, rồi mở cửa cho con kỳ nhông bò ra. Vì việc làm ác đức nầy, mà bây giờ, bẩy người các ông, cũng phải bị nhốt nơi hang động trong bẩy ngày mà không có thức ăn, và thức uống."
The Buddha replied, “Even in the sky or anywhere else, there is no place which is beyond the reach of the consequences of evil.”
Để kết thúc, Đức Phật nói rằng, "Dù cho có bay-được lên trời cao, hoặc là chạy-trốn đến bất kỳ nơi nào khác, thì chẳng-có nơi nào mà trốn-thoát được hậu-quả của việc-ác do mình đã tạo ra."
EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 127)
yatthaṭṭito pāpakammā muñceyya so jagatippadeso na
vijjati antalikkhe na samuddamajjhe na pabbatānaṃ
vivaraṃ pavissa na yattha: somewhere; ṭhito: taking shelter; pāpakammā: from the results of evil actions; muñceyya: (one could) escape; so: that kind of; jagatippadeso: spot on earth; na vijjati: is not seen; antalikkhe: out in space; na: there is no such place; samuddamajjhe na: nor (is there such a place) in the middle of the ocean; pabbatànaü: of mountains; vivaraṃ: cleft, crevice or opening; pavissa: having entered: na: (one cannot escape)
yattha: một nơi nào đó; ṭhito: làm nơi trú ẩn; pāpakammā: từ kết quả của các hành động ác; muñceyya: (một người có thể) trốn thoát được; so: thể loại đó; jagatippadeso: nơi nào trên trái đất; na vijjati: không nhìn thấy; antalikkhe: trên trời; na: không có nơi nào như vậy; samuddamajjhe na: cũng không (có một nơi như vậy) ở giữa đại dương; pabbatānaṃ: (thuộc về, của) núi; vivaraṃ: hở, kẽ hở hoặc đường mở; pavissa: đã đi vào: na: (một người không thể trốn thoát)
There is no single spot-on Earth an evil-doer can take shelter in to escape the results of his evil actions. No such place is seen out there in space, or in the middle of the ocean. Neither in an opening, a cleft or a crevice in a rocky mountain can he take shelter to escape the results of his evil action.
Dù cho có bay-được lên trời cao, dù cho có lặn-được xuống đáy biển, dù cho có chui-được vào hang núi đá sâu. Một người làm-ác không-tìm ra được trên Trái Đất nầy bất-cứ nơi trú-ẩn nào, để trốn-thoát được hậu-quả của việc-ác do mình đã tạo ra.
COMMENTARY - BÌNH LUẬN:
na vijjati so jagatippadeso: there is no place. The implication here is that there is no place either on land, in the sea or in the sky where an evil-doer can escape the consequences of his misdeeds. The stanza mentions some of the places which might be considered safe: antalikkhe (space; sky); samuddamajjhe (in the middle of the sea); pabbatānaṃ vivaraṃ (crevices of a rock).
na vijjati so jagatippadeso: không có nơi nào. Ở đây, câu nầy có ý nói rằng không-có nơi nào hoặc trên đất liền, hoặc dưới đáy biển, hoặc trên bầu trời, không-có một nơi nào, mà một người làm-ác có thể trốn-thoát được hậu quả của những việc-ác do mình làm. Bài kệ nầy đề cập đến một số nơi mà có thể được xem là an toàn như: antalikkhe (trên không trung, trên trời); samuddamajjhe (ở giữa biển); pabbatānaṃ vivaraṃ (trong hang đá, chỗ đường nứt của một núi đá).
“…No place to hide…”
“…không có chổ nào trốn được…”
Sources:
Tài liệu tham khảo: