As soon as he became enlightened, he thought with love and pity of those five poor men, torturing themselves all to no purpose, and he resolved to go to them immediately and tell them of his discovery. On his way he met two merchants, who, when they saw the Buddha's shining face, knew that he was a great Teacher and bowed before him, offering food. These became his first followers. Ngay sau khi giác ngộ, với lòng xót thương lân mẫn, Ngài liền nghĩ đến năm huynh đệ tội nghiệp kia, tự hành hạ mình một cách vô lối. Ngài quyết tâm đến gặp họ ngay và nói cho họ biết về sự khám phá của mình. Trên đường, Ngài gặp hai thương gia, và khi nhìn thấy khuôn mặt sáng ngời của Phật, họ biết Ngài là một Ðạo sư vĩ đại. Họ quì gối đảnh lễ và dâng thức ăn cho Ngài. Hai người này trở thành môn đồ đầu tiên của Ngài....
The last Noble Truth is the way by which suffering ceases. It is the Noble Eightfold Path he found for us to follow. How easy to say we must destroy ignorance, but how can we do it? By walking in the Path, the Buddha found for us. Each step on this Path will help us to destroy a little of the ignorance until, when we have reached the end of the path, we will become like our Master, the Buddha, fully enlightened. All ignorance will have been driven out of our minds. In the place of ignorance, the bright light of Knowledge will shine. Sự Thật Cao Quí Cuối Cùng là con đường dẫn đến diệt khổ. Ðó là Con Ðường Tám Bước Cao Quí mà Ngài đã khai mở cho chúng ta. Thật là dễ dàng để nói chúng ta phải diệt trừ vô minh, nhưng phải làm thế nào đây? Chỉ bằng cách đi trên con Ðường mà Ðức Phật đã khai thị cho chúng ta. Mỗi bước đi trên con Ðường này sẽ giúp ta diệt trừ một chút vô minh cho đến khi đi hết đoạn đường là ta thành Phật, Bậc Giác Ngộ Hoàn Toàn, như Ðức Bổn Sư vậy. Tất cả vô minh sẽ bị loại khỏi tâm trí ta và, thay vào đó, ánh sáng trí tuệ sẽ bừng sáng rực rỡ....
When the Buddha became enlightened, he saw four great truths. These are always spoken of as the "Four Noble Truths". The First Noble Truth is that "life is full of suffering". This does not mean that there is no joy or pleasure in life, far from it. But it means that life as a whole is subject to suffering, because nothing lasts, because death comes to all life and causes parting and tears. Suffering comes because we try to hold on to things instead of learning to let them go willingly. Khi Ðức Phật giác ngộ, Ngài thấy rõ bốn Sự Thật vĩ đại được gọi là "Tứ Diệu Ðế". Sự Thật Cao Quý Thứ Nhất: "Ðời là dẫy đầy đau khổ". Ðiều này không có nghĩa là không có hân hoan, lạc thú trong đời, trái lại là khác. Nhưng có nghĩa cuộc đời nói chung là bị đau khổ, vì không có gì tồn tại mãi, vì cái chết sẽ đến với tất cả cuộc đời và gây ra cảnh chia ly tang tóc. Ðau khổ xảy đến là vì chúng ta cố bám chặt vào mọi thứ, thay vì để chúng tha hồ ra đi....
Now we see that the prince had looked in many places to find the truth, but so far had not succeeded. He had read the Holy Books of the Brahmins and tried to find it there, but had not been successful. He had examined into the services and sacrifices of the Hindu temples, but had been disgusted and saddened by the terrible cruelties he had seen there. Chúng ta thấy hoàng tử đã tham kiến nhiều nơi để tìm ra Sự Thật nhưng đến nay vẫn chưa thành công. Chàng đã đọc tụng Thánh Ðiển của Bà-la-môn giáo, cố gắng tìm ra chân lý ở đó nhưng vẫn không thành. Chàng đã quan sát các lễ nghi dâng hiến trong các đền thờ Ấn giáo nhưng chỉ chứng kiến cảnh tàn ác dã man đến đau buồn ghê tởm....
The guards were opening the gates and the Prince entered them and walked slowly through the streets of the city. The people knew that he was a stranger and they saw that in some way or other he was different to most of those who visited the city. His noble bearing, his grave, gentle manner and his kind face proclaimed him to be a man worthy of trust and respect, a great sage and teacher. Vệ binh mở cổng, hoàng tử bước vào và từ tốn đi qua các đường phố trong thành. Dân chúng biết chàng là khách lạ. Họ thấy chàng có đôi nét khác biệt với phần lớn du khách viếng thành trước kia: phong thái cao sang, tính khí can trường, thái độ hòa nhã và khuôn mặt hiền từ của chàng đã cho thấy chàng là một hiền giả cao quí, một đạo sư vĩ đại, đáng được tin yêu kính trọng....
He passed out of the palace into the courtyard, where Channa, his faithful servant, awaited him with his horse, Kanthaka, already saddled. Together they rode out into the sleeping city and along the road leading towards the forest. Chàng rời khỏi cung thất, ra đến sân sau, nơi Xa-nặc, người thị vệ trung thành, đang đợi chàng với con tuấn mã Kiền-trắc (Kanthaka) đã thắng sẵn yên cương. Họ cùng nhau lên ngựa ra ngoài kinh thành đang ngủ và chạy dọc theo một con đường nhỏ dẫn đến cánh rừng....
When the Prince reached manhood, the King decided that it was time he married, for he thought that if the prince had home ties, such as a wife and children, he would not want to leave and become the Buddha, but would instead become the great king. Khi hoàng tử đến tuổi trưởng thành, quốc vương quyết định lập gia đình cho chàng vì ngài nghĩ rằng nếu hoàng tử có những mối ràng buộc gia đình như vợ con thì chàng sẽ không muốn xuất gia thành Phật mà sẽ trở thành đại vương....
Siddhartha rushed forward and picked up the poor frightened creature and gently withdrew the arrow from its bleeding wing. Books tell us that this was the first time that the Prince had come face to face with pain and suffering. Devadatta angrily demanded that Siddhartha give up the bird, claiming ownership because he had shot it. But the Prince refused, saying that it belonged to the person who saved its life. And he gently stroked the bird and then let it fly away. Tất-đạt-đa vội chạy đến bế con vật sợ hãi đáng thương lên và nhẹ nhàng rút mũi tên ra khỏi cánh đẫm máu của nó. Sách vở cho chúng ta thấy đây là lần đầu tiên hoàng tử giáp mặt với khổ đau. Ðề-bà-đạt-đa tức giận, bắt Tất-đạt-đa trả lại con chim, đòi quyền sở hữu vì chàng đã bắn trúng nó. Hoàng tử từ chối, nói rằng nó thuộc quyền người nào cứu mạng nó. Chàng âu yếm vuốt ve con chim rồi thả nó bay đi....
The Prince was taken to the palace where King Suddhodana prepared to celebrate the feast of naming the child. In those days learned men studied a good deal about the stars, for it was believed that these stars had a great influence on men's lives. Whenever a child was born a wise man was called in to foretell the child's future by the position of the stars at the time of his birth. Hoàng tử được đưa đến hoàng cung, nơi quốc vương Tịnh-Phạn chuẩn bị làm lễ đặt tên cho cậu. Vào những ngày đó, các nhà thông thái nghiên cứu nhiều về các vì sao, vì người ta tin rằng các vì sao đó có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của nhân loại. Khi một em bé ra đời thì một hiền sĩ được mời đến để tiên đoán tương lai của em bé qua vị trí của những vì sao ngay lúc em mới sinh ra....
About 2,500 years ago, in the city of Kapilavatthu, in India, lived a wise and powerful king called Suddhodana. He was much loved and respected by his people because of his kindness and justice. His wife, Queen Maya, was a very beautiful woman, and what was better still, was good and pure. Cách đây khoảng 2.500 năm, tại thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu) ở Ấn Ðộ, có một quốc vương sáng suốt, uy dũng gọi là Tịnh-Phạn (Suddhodana). Ngài được nhân dân rất mực yêu quí, kính trọng vì tính nhân ái, công bình của ngài. Vợ ngài, hoàng hậu Ma-da (Maya) là một phụ nữ rất đẹp, và đẹp hơn nữa là tính tình hiền hậu, trong sạch của bà....
Who was the Buddha? By first hearing a little about his life we shall get to know him better, then we shall enjoy listening to what he has to tell us. Ðức Phật là ai? Nếu trước tiên biết được đôi chút về cuộc đời của Ngài, chúng ta sẽ hiểu Ngài rõ hơn, và rồi sẽ thích nghe những điều Ngài thuyết giảng...